Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp: Vẫn gặp khó khăn

TQĐT – Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành các vùng chuyên canh lúa, màu theo hướng hàng hoá cho hiệu quả kinh tế cao. Việc đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp được tăng cường, song vẫn gặp những khó khăn.

Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp được các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quan tâm đầu tư, số lượng máy móc tăng nhanh qua các năm. Toàn tỉnh hiện có gần 30.000 máy nông nghiệp các loại, bước đầu giải phóng được sức lao động của con người trong các khâu nặng nhọc, đảm bảo đúng thời vụ, tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất. Đây là điều kiện quan trọng để phát triển cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Nông dân xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) cơ giới hóa khâu thu hái chè nguyên liệu.
Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp: Vẫn gặp khó khăn

uy nhiên, việc đồng bộ hóa cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn gặp nhiều khó khăn, khó nâng tỷ lệ này lên cao hơn do đồng ruộng manh mún, phương thức canh tác không đồng bộ, chi phí đầu tư mua máy cao… bên cạnh đó, trình độ của người dân trong tiếp cận, ứng dụng thiết bị, công nghệ không đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng sản xuất. Để tháo gỡ vấn đề này, tỉnh cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các chính sách thúc đẩy ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất, mở rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn. Các địa phương quan tâm mở các lớp tập huấn về bảo trì, sử dụng các loại máy nông nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả và giảm tỷ lệ hư hao sản phẩm sau thu hoạch.Mức độ cơ giới hóa trên địa bàn tỉnh còn thấp và không đồng đều ở các loại cây trồng khác nhau, trong các khâu khác nhau. Đối với các khâu sản xuất: Khâu làm đất, đạt 48.987,86 ha, chiếm 68,4% diện tích đất gieo trồng; khâu gieo cấy 2.346 ha, đạt 3,28% diện tích đất gieo trồng; khâu chăm sóc 3.022,8ha, đạt 4,22%; khâu thu hoạch 10.232,6 ha, đạt 14,29%; khâu tuốt, tách hạt 31.338,51 ha, đạt 44,52%. Đối với các loại cây trồng, cây lúa  đạt mức độ cơ giới hóa cao nhất, đạt 78,07%; tuy nhiên, mức độ cơ giới hóa ở các khâu sản xuất chưa đồng bộ, mới chỉ tập trung chủ yếu ở khâu làm đất, tuốt lúa, còn các khâu khác lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Tỷ lệ này đối với cây ngô, lạc mức độ cơ giới hóa đạt 53,81%; cây đậu tương đạt 74,35%; cây mía 53,39%; cây chè đạt 35,93% diện tích gieo trồng.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ sở hạ tầng nông thôn chưa phát triển đồng bộ, diện tích sản xuất nông nghiệp nhỏ hẹp, phân tán, địa hình không bằng phẳng gây khó khăn trong việc di chuyển nội đồng và tác nghiệp trên thực địa, đặc biệt ở khâu thu hoạch dẫn tới năng suất thấp, tăng chi phí nhân công, nhiên liệu, sửa chữa và bảo dưỡng… Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của người dân còn thấp nên khả năng đầu tư máy móc, thiết bị cơ giới hóa gặp nhiều khó khăn; đa số lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo nghề; dịch vụ sửa chữa máy nông nghiệp kém phát triển, ứng dụng cơ giới hóa tại một số vùng chưa hiệu quả, chưa phát huy hết công năng, tác dụng của máy dẫn tới năng suất lao động đạt thấp, chi phí đầu tư cao, thu hồi vốn chậm đã ảnh hưởng đến việc ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp.

Ở một số nơi, người dân còn khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn được hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg, ngày 14 -11 – 2013 của Thủ tướng Chính phủ, do máy móc thiết bị được vay vốn phải được Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố có giá trị sản xuất trong nước trên 60% và người vay phải có tài sản thế chấp, không cho phép sử dụng tài sản thế chấp được hình thành từ nguồn vốn vay. Hiện toàn tỉnh mới chỉ có 8 hộ được vay với tổng vốn vay là 227,5 triệu đồng để mua máy làm đất.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *